TRẦM TỬ THIÊNG – Hạt bụi vo tròn trong bụng Mẹ cút côi (phần 1) – Đoàn Nhã-Văn

Một đêm mùa hè năm 1985, trên căn gác ọp ẹp của căn nhà vách phên mái lá, gần phi đạo của trại tị nạn Palawan, lần đầu tôi nghe một nhạc phẩm “lạ”. Tiếng hát bật ra từ chiếc máy của căn nhà lá đầu dãy, quyện cùng tiếng mõ, cất lên:

Mẹ ngồi nguyện cầu hằng bao đêm
Lời kinh vọng xa thật êm đềm
Mẹ cầu cho con, vượt qua ngày tròn
Mẹ cầu cho em tuổi trời xanh còn nguyên đừng biến mất

Lần đầu tiên nghe, tôi không biết ai đã sáng tác nhạc phẩm này. Điệu nhạc và giọng hát quyện vào nhau, da diết. Ca từ của nhạc phẩm này ám ảnh tôi. Nhiều hôm sau, tôi muốn nghe lại, tiếc rằng chủ nhân của chiếc máy đã mở những bản nhạc khác. Sau này, tôi mới biết đó nhạc phẩm “Kinh Khổ”, của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.

Cũng mãi sau này, tôi có nghe nhiều giai thoại về cuộc đời ông, nhưng trong đó có một giai thoại, tôi nhớ đến tận giờ. Đó là, sau 1975 ông nhiều lần tìm đường vượt biên. Liên lạc bao nhiêu đầu mối, qua nhiều trung gian uy tín, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối vì những chủ ghe không muốn nhận ông đi cùng. Khi hỏi: người hành khách đó là ai? Người trung gian nói tên ông. Tất cả mọi chủ ghe đều từ chối. Rất đơn giản, vượt biển, không ai dại gì nhận theo mình một người có cái tên: Trầm + Tử + Thiêng.

Nhưng rồi, ông vẫn đến được bến bờ tự do. Có lẽ lần này, ông cho chủ ghe biết, tên thật của mình là Nguyễn Văn Lợi. Có ông đi là mang lại thuận lợi chăng.

Nghe nhiều nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng, ở những góc riêng của mình mỗi bài hát như đi vào từng tế bào, chiếu rọi vào trong, chiêm nghiệm. Ở những khoảnh khắc ấy, tôi như “uống” từng chữ trong ca từ của ông, một cách mê mẩn. Cũng từ đó, tôi nghiệm ra, phần ca từ trong những nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng có nhiều điều đáng suy ngẫm.

I – Trái tim của một người Việt Nam chân chính

Có nhiều nguồn liệt kê danh sách những nhạc phẩm của Trầm Tử Thiêng, và những nguồn đó đều cho rằng con số sáng tác của ông đến hơn 200 nhạc phẩm. Từ những sáng tác ấy, phảng phất một trái tim mẫn cảm với đời, luôn đập những nhịp đập với sự nổi trôi của vận nước.

Đất nước chiến tranh, súng đạn vô tình, ông đau với cái đau của người còng vai gánh nặng những điêu linh, những người đã để lại một phần thân thể của mình cho đất nước, hay nằm yên trong huyệt lạnh vô danh vì hai chữ “quê hương”. Lời ca của ông như một lời tạ ơn chân thành, tha thiết.

Cám ơn anh kịp lớn giữa thù hằn
Thắp đôi vai gồng gánh nỗi điêu linh
Bóng vinh quang lắp sâu trong huyệt lạnh
Hay ngồi đau thầm lặng giữa thanh bình

(Cám ơn Anh)

Cũng trong thời chinh chiến ấy, có bà Mẹ nào nhìn thấy từng đứa con ngã xuống mà không nhói lòng. Trong tất cả những nỗi đau, không có nỗi đau nào lớn hơn cảnh lá vàng khóc lá xanh rơi, đó là nỗi đau của bà Mẹ mất con. Hình ảnh một người mẹ ngồi nguyện cầu từng đêm, từng đêm cho những đứa con của mình. Lời nguyện cầu nhỏ nhoi giữa một thời chinh chiến đầy lửa đạn. Ở cuối nẻo điêu linh mà người dân Nam gánh chịu, nhạc phẩm “Kinh Khổ” viết năm 1973, đã lay động lòng người.

Mẹ ngồi nguyện cầu hằng bao đêm
Lời kinh vọng xa thật êm đềm

Ca từ và điệu nhạc quyện vào nhau, chở nhạc phẩm vào thẳng trái tim của người thưởng ngoạn. Người Mẹ ấy không còn của riêng ai. Không còn của tôi, của anh, của chị. Đó là Mẹ Việt Nam.

Người về một ngày một lưa thưa
Người đi càng đêm càng đông dần
Từng dài âu lo

Từng đêm đợi chờ.

Mộng thật cam go
Miễn là mai niềm đau thành nụ cười

(Kinh Khổ)

Đây là một trong những bài hát có ca từ mang những ẩn dụ, có thể xem là rất khác xa những bài hát khác của ông. “Người về một ngày một lưa thưa / Người đi càng đêm càng đông dần”. Từng đợt người về, rồi từng đợt ra đi.

“Lạ” ở chỗ: tiếng cầu kinh cứ đều đều, tiếng bước chân cứ liên tục. Người về, rồi người đi. Mà người ở đâu về? Rồi người từ đâu đi? Và đi về đâu? Không rõ.

Tuy nhiên, chúng ta biết chắc một điều: Từ khi loạn ly vào đêm đầu / Tình người tiêu hao / Niềm tin bội bạc. Để rồi ông mở ra:

“Lạnh lùng một ngày một qua mau
Lời kinh mù sương mờ trên đầu
Mộng chờ sau đêm

Ngày mai thật lạ

Thù hằn anh em, bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà”

Đó là ước vọng cao đẹp của hai chữ “đồng bào”, đó cũng là mơ ước của tình máu mủ. Không có gì đẹp hơn hình ảnh “bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà”. Xa hơn, với tôi, nhạc phẩm này không chỉ vẽ lại một phần lịch sử, mà còn có tính tiên tri cho vận mệnh của dân tộc Việt, trong nhiều năm sau nữa. Cứ nhìn lại giai đoạn lịch sử cận đại sẽ rõ.

1954, kẻ về, người đi. Vâng, kẻ ở rừng, người về thành ở lại, rồi người ra đi, xuôi Nam.

1975, cũng từng lớp người về từ Trường Sơn, lại từng lớp người khác xuôi nhau ra biển. Cuộc ra đi vẫn tiếp diễn và kéo dài thêm nhiều năm sau đó, như ông tiên liệu “người đi càng đêm càng đông dần”?

2000 cho đến nay và sẽ cho đến nhiều năm sau nữa, cũng lớp lớp người trở về, và vẫn lớp lớp người ra đi. Đi và về, hay Về rồi đi. Lịch sử đang tiếp diễn, nối tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác, như lời tiên tri của ông. Dẫu đi hay về, người Mẹ vẫn ngày đêm nguyện cầu “Thù hằn anh em, bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà”. Đó là một ước mơ, từ trái tim bật máu của một người Mẹ.

Không đau với nỗi đau chung của dân tộc, không thể viết nên một nhạc phẩm hay như thế.

Đất nước chiến tranh, đồng hoang xơ xác, bạn bè gục ngã, thiếu phụ khăn tang, trái tim người nghệ sĩ bật máu với cái mất mát tận cùng, ông đã từng khóc với chiếc cầu Trường Tiền gãy đổ qua ca khúc “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”. Để rồi, ông ước mơ một ngày mai hòa bình tươi sáng, để còn thấy con sông quê lặng yên, con đò chiều chở trăng tĩnh mịch; để ngửi mùa lúa đang chín tới, để thương ngọn khói chiều hôm ở cuối thôn làng.

Mai đây Hòa Bình.
Ta về ngắm lại dòng sông xưa.
Ðồng hoang xơ xác hai bên
Sẽ mai này thơm mùi lúa chín.
Trên sông người về
Con đò chở đầy vầng trăng quê
Hò khoan cô lái du dương
Ðón đưa người đi về chung đường

(Hòa bình ơi, Việt Nam ơi)

Ước vọng đồng hoang trở thành những đồng lúa chín, không chỉ là ước mơ của ông, mà còn là ước mơ của bao thế hệ. Và ông đã viết cho mình, cho quê hương, như thế.

Sau khi chiến tranh bằng súng đạn chấm dứt, lại có một cuộc chiến tranh khác không kém phần nghiệt ngã, đó là cuộc chiến của lòng thù hận đã diễn ra tàn khốc. Để rồi, “Cây cột đèn nếu có chân cũng phải ra đi”, nên bao người đã nằm xuống trên đường vượt thoát. Cuối “mùa” tị nạn, thế giới làm ngơ, lương tâm nhân loại đã ngủ quên đâu đó trước tiếng kêu gào của máu đỏ, da vàng, Trầm Tử Thiêng song hành với đồng bào mình, nhất là những em thơ mở to đôi mắt nhìn xuyên qua những dãy rào kẽm gai, ước mơ được tự do, bay nhảy với bầu trời xanh bên ngoài song chắn, bên ngoài những dãy rào kẽm gai.

Bên em đang có ta, hát về em tương lai xót xa
Hát giùm em cơn mơ thiết tha, giấc mơ tuổi hoa
Bên em đang có ta, thống thiết kêu vang lương tâm thế gian
Cứu vớt em rời khỏi ngày u ám, giữa trại giam
(Bên em đang có ta)

Cuối thập niên 1970’s, tự điển của thế giới có thêm từ mới là “boat people”. Thuyền nhân hay “boat people” là một điều không thể không nhắc tới nếu nói đến lịch sử cận đại Việt Nam. Mà trong giai đoạn 1975-1995 ấy, có người nhạc sĩ nào đau đáu với nỗi đau của đồng bào tị nạn như Trầm Tử Thiêng? Có nhạc sĩ nào đã viết những ca khúc về người tị nạn, chẳng hạn như “Tâm ca của người tù vượt biển”, “Trại tị nạn Ga Lăng”, “Bên em đang có ta”, “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, v.v., như Trầm Tử Thiêng? Không phải chỉ có thế giới ngoảnh mặt, mà chính những nhạc sĩ Việt Nam dường như không đủ lửa để viết về (nhìn vào số nhạc phẩm sẽ rõ) hoặc đi bên cạnh những những nỗi đau ấy, trong suốt hai mươi năm tưởng đá vàng phai này, như Trầm Tử Thiêng đã từng. Có, nhưng rất hiếm, chẳng hạn Việt Dzũng, Châu Đình An, với rất ít nhạc phẩm viết về người tị nạn.

Trầm Tử Thiêng lừng lững bước tới, và đã sáng tác những nhạc phẩm cho đồng bào, cho dân tộc mình, ở một khúc quanh lịch sử đầy nước mắt và dậy tiếng kêu than như thế. Khi cả thế giới quay lưng, các trại tị nạn trục xuất, cưỡng bách đồng bào về lại Việt Nam, bao nhiêu máu đã đổ xuống, một cách tự nguyện, để chống cưỡng bách hồi hương tại: Hồng Kông, Mã Lai, Thái Lan, và ngay cả Phi luật Tân. Tuy nhiên, ngay sau đó, chính phủ Phi đã mở lòng nhân đạo, cho người Việt tị nạn một con đường sống, đồng ý cho người tị nạn ở lại trên đất Phi (nhưng không được nhập tịch Phi), với làng Việt Nam mở ra. Trầm Tử Thiêng, Việt Dzũng, và nhiều người khác nữa đã về “làng Việt Nam”. Không phải về để thăm đồng bào mình trong cách thế của một người về từ bến bờ tự do, mà ngược lại, ông về để bưng chén cơm, chan nước mắt mừng vui với đồng bào kém may mắn của mình. Và hơn thế nữa, ông đã viết một ca khúc lẫy lừng “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”.

Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng.

Một vòng tay vừa mới mở ra

Cứu anh em những đời mạt vận

Đường mơ đi càng bước càng xa

Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng

Hai mươi năm tưởng đá vàng phai

Có em tôi nuốt từng giọt lệ

Ngậm oan khiên đợi mãi một ngày …

Hãy nói cho mọi người cùng nghe:

Người đã cứu người

Hãy nói cho mọi người cùng nghe:

Làng Việt Nam đang xây thêm bên ngoài Việt Nam

(Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng)

Đã rớt nước mắt trong niềm hạnh phúc vô tận, đã vang vang hô lớn giữa đất trời lồng lộng, “Hãy nói cho mọi người cùng nghe: Người đã cứu người”. Bao nhiêu nhạc sĩ Việt Nam đã làm được như ông, trong một thời dâu bể, tang thương?

Cũng nên nói thêm, vì nhờ lòng nhân đạo vô bờ bến của chính phủ Phi, mà mấy năm sau, nhiều ngàn đồng bào được chính phủ Mỹ mở ra ân huệ cuối cùng cho người tị nạn Việt Nam. Bao nhiêu năm chờ đợi, nhiều ngàn đồng bào kém may mắn, đi sau, đã thực sự đến bến bờ tự do.

Cuộc bỏ phiếu bằng chân đã mở ra một hướng mới: người tị nạn Việt nam đã đặt chân trên khắp năm châu. Một lần nữa, có bao nhiêu nhạc sĩ đã viết về họ, những bước chân Việt Nam này, từ những hoang mang, hơ hoảng bước đầu, đến những tự tin, rồi thành công ở nhiều lĩnh vực? Cũng chỉ mình ông làm điều ấy. Và ông mơ những trái tim mang dòng máu da vàng, dù bất cứ chân trời góc bể nào, hãy cùng tựa vào nhau, cùng hát vang lên lời Việt Nam, cho bình mình xua tan bóng tối.

Dù nhục dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt Nam
Tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu
Gọi người gọi ta

Gọi số kiếp lưu đày gần xa
Gọi bóng tối ngưng bài cuồng ca
Cho tiếng hát mơ ngày Việt Nam.

(Một ngày Việt Nam)

Tấm lòng ông còn thể hiện qua rất nhiều bài hát, trong đó có một số bài viết chung với Trúc Hồ, chẳng hạn: Việt Nam Niềm Nhớ, Một ngày Việt Nam, Bước chân Việt Nam, v.v.

Hỡi kiếp sống mang khổ đau chưa qua bên niềm mơ tương lai chưa tới

Hãy cất tiếng qua đại dương mênh mông ta cùng ca chung nỗi mong chờ

Hỡi những bước chân Việt Nam lưu vong đang còn chu du trên thế giới

Hãy cất tiếng ca cùng tôi câu ca mang tình thương gửi tới quê nhà

(Việt Nam Niềm Nhớ)

Và,

Khắp nơi trên địa cầu, giờ in dấu bước chân Việt Nam
Những đôi chân miệt mài, đang vươn tới dưới ánh ban mai
(Bước chân Việt Nam)

Thuở chinh chiến, đi sát với thời cuộc, ông viết những nhạc phẩm “Đưa em vào hạ”, “Chuyện một chiếc cầu đã gãy”, “Bài vinh thăng cho một loài chim”, “Kinh khổ”,v.v. Sau chiến tranh, ông theo bước chân của những người tị nạn Việt Nam, đã rút ruột của mình ra mà viết: “Tâm ca của người tù vượt biển”, “Dứt bão bắt đầu nước mắt”, “Gởi em hành lý”, “Trại tị nạn Ga Lăng”, “Bên em đang có ta”, “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, v.v. Ở xứ người ông xiển dương hai tiếng Việt Nam bằng những sáng tác tuyệt vời, như “Bước chân Việt Nam”, “Một ngày Việt nam”, “Việt Nam Niềm Nhớ” v.v.

Ông đau với nỗi đau của Mẹ trong thời chinh chiến. Ông quặn lòng trước cái mất mát, điêu tàn của quê hương, trái tim đã bật máu với bạn bè đã ngã, và xót xa trước cảnh ngục tù ở trại tị nạn của các em thơ, v.v. Trước và sau, ông yêu đất nước Việt Nam vô bờ bến bằng cách song hành với bao nhiêu khổ nạn của đồng bào. Hai tiếng Việt Nam như thể luôn vang vang trong lồng ngực.

Chưa có một nhạc sĩ nào viết về những khổ nạn của người Việt Nam, về trái tim VN, về những bước chân VN trên khắp địa cầu như ông, từ năm 1975 đến nay. Và cũng dường như chưa có một nhạc sĩ nào mơ những trái tim mang dòng máu da vàng, dù bất cứ chân trời góc bể nào, cùng hát vang lên lời Việt Nam, như Trầm Tử Thiêng.

Với tôi, Trầm Tử Thiêng là một-người-Việt-Nam-chân chính đúng nghĩa.

(Còn tiếp phần 2)

Đoàn Nhã-Văn

Bài Liên Quan

Leave a Comment