- Tác giả,Nguyễn Hữu Liêm
- Vai trò,Gửi cho BBC từ California, Hoa Kỳ
- 7 tháng 10 2024, 14:44 +07Cập nhật 7 giờ trước
Nhân dịp Trung Quốc kỷ niệm 75 năm (1949-2024) thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chúng ta hãy nhìn lại lịch sử Trung Quốc từ góc độ triết học và thử nêu một bài học cho Việt Nam.
Câu hỏi cơ bản: Tại sao khoa học thực nghiệm không khởi sinh ở Trung Quốc?
Một chút lịch sử. Chuyện kể rằng ở thời nhà Minh ở thế kỷ 15, có một học giả nổi tiếng Trung Hoa tên là Vương Dương Minh (Wang Yangming) đã bỏ ra bảy ngày đêm để nhìn vào một cây măng tre nhằm hiểu về nó. Cuối cùng ông đã bị ngã bệnh và tuyên bố rằng sự nghiên cứu nhằm thông hiểu về thế giới khách quan chỉ có thể đạt được khi cá nhân trở về lại quán chiếu đời sống nội tâm.
Một sử gia thiên nhiên của triều đại nhà Thanh là Lưu Hiến Đình (Liu Xianting) cũng đã viết trong tinh thần tương tự, “Ta có nghe nói rằng một miếng sắt có thể ngăn cản một khúc nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt khác và đã bày ra thử nghiệm để xác nhận điều đó. Tuy nhiên, đó là việc không cần thiết bởi vì những thử nghiệm như thế chỉ đưa đến những sự thật nhỏ nhoi. Ta cũng nghe nói rằng củ tỏi có thể ngăn cản cục nam châm khỏi hấp lực một miếng sắt. Ta cũng chưa hề thử nghiệm điều này.”
Ðây có thể là những chuyện nhỏ của lịch sử khoa học Trung Hoa, nhưng chúng nói lên một thảm kịch lớn của tinh thần trí thức người Tàu, vốn nằm ngủ trong học thuyết và truyền thống Khổng Mạnh, để rồi bỏ lỡ nhiều cơ hội cách mạng khoa học cho nền văn minh cổ đại lớn lao này. Ðối với người Trung Hoa thời đó, mọi quy trình thực nghiệm (empirical experimentation) đều vô ích. Vì thế, khoa học của người Trung Hoa cho đến cuối thế kỷ 20 vẫn còn ở lại với trình độ thủ công và thực dụng, không có nền tảng bằng chứng thực nghiệm để vươn lên tới chiều cao lý thuyết.
Vì sao khoa học cất cánh ở châu Âu?
Cũng trong thời gian đó, cuối thế kỷ 15, thì ở châu Âu một cuộc cách mạng khoa học đang trổi dậy như cơn thủy triều. Khi mà Dương Vương Minh ngồi nhìn cây măng tre, thì ở Ý, Leonardo da Vinci (1452-1519) đang vẽ nàng Mona Lisa với nụ cười bí ẩn đồng thời thực hiện những thí nghiệm phẫu thuật về cơ thể con người và thiết kế những máy móc gia dụng khác. Da Vinci tuyên bố rằng khoa học chỉ là vô dụng và đầy những phi lý nếu nó không được minh xác bằng con đường thực nghiệm.
Ðó là quan điểm chung của giới trí thức khoa học châu Âu đương thời – một lập trường tri kiến phát xuất từ siêu hình học Aristotle. Cùng lúc này, Ferdinand Magellan vừa hoàn tất chuyến viễn hành vòng quanh địa cầu lần đầu tiên, Paracelsus khám phá ra hóa học y khoa, còn Copernicus và Vesalius đã đem một cách mạng mới về vũ trụ quan và khoa học – thuyết Thái dương tâm luận (Heliocentrism) – vốn thay thế Địa cầu tâm luận (Geocentrism) với hai đại tác phẩm De revolutionibus Coelestium và De humani corporis fabrica.
Ngoài sự khác biệt về vũ trụ quan và nhân sinh quan, thì có một sự phân định quan trọng cho lý do tại sao mà cuộc cách mạng khoa học đã được khởi sinh ở châu Âu thay vì ở Trung Hoa: Sự độc tài chuyên chế của các cơ chế xã hội của người Trung Hoa.
Sở dĩ khoa học được tung cánh ở châu Âu vào thời đó là nhờ sự xuống dốc của quyền lực giáo hội Thiên Chúa La Mã – vốn đã đè nén năng lực trí thức Tây Âu suốt mười lăm thế kỷ mà sử ký gọi là Thời đại Bóng tối (the Dark Age). Cho đến khi sự độc tôn trí thức bởi giáo quyền đi vào thoái trào, thì cây cổ thụ khoa học của nhân loại được vươn lên ngay ở châu Âu.
Trong khi đó, ở Trung Hoa, dù trí thức không bị áp chế bởi một giáo hội tôn giáo, nhưng họ lại bị nghiêm trị bởi các cơ chế chính trị vương quyền. Mọi triết học và lý thuyết khoa học đều nhấn mạnh đến sự biện minh cho chính thống tính của Thiên tử và trật tự vương quốc liên hệ. The Dark Age của chính trị Trung Hoa trên nhiều bình diện vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.
Trung Quốc: Gánh nặng vũ trụ luận mơ hồ và văn hóa bảo thủ
Trên một phương diện khác, Trung Hoa mang một gánh nợ trí thức thứ hai không kém nặng nề và phản tiến bộ. Ðó là một truyền thống bản thể luận thiếu minh bạch. Trong lúc khoa học phương Tây đang vươn lên không gian bao la thì người Trung Hoa vẫn còn bị dính chằng chịt vào một hệ thống vật luận (metaphysics) huyền bí và mơ hồ.
Khâu Nhân Tông (Quin Renzong), giáo sư triết ở Bắc Kinh, đã viết, “Các hiện tượng đa dạng của vũ trụ đã chỉ được hiểu (bởi người Trung Hoa) với những hệ thức (schemes) như là Âm-Dương, Nhu-Cương… Trong khung thức Âm-Dương, Nhu-Cương, những hệ thống vũ trụ luận đại thể (holistic cosmic systems) được thiết lập, mà trong đó, sự phân biệt giữa hiện tượng thiên nhiên và những vấn đề xã hội vốn trở nên rất lu mờ. Hai hệ thống đại thể Âm-Dương và Nhu-Cương này được coi như là nền tảng của thiên văn học và là một bí thuật, không thể bị chứng minh là sai – do vậy mà không được thay đổi cả hàng ngàn năm.”
Hãy tưởng tượng rằng một Hi Lạp mà siêu hình học bị dừng lại ở Plato – và Aristotle không bao giờ xuất hiện. Ðó là trường hợp của Trung Hoa. Sau Khổng Tử – mà triết học rất gần với Plato – không còn có một triết gia tầm cỡ nào phủ định và vượt qua ông cả. Từ đó, nền tảng bản thể học và vũ trụ luận của người Trung Hoa bị đông lạnh. Chúng trở nên cơ sở biện minh cho chính thống chính trị vương quyền Trung Quốc suốt cả chiều dài lịch sử của họ – cho đến ngày khi người Cộng sản đứng lên làm lịch sử với biện minh nhân dân và giai cấp mới.
Tuy nhiên, dù Marx hay không Marx, bản chất đế quyền của người Trung Hoa vẫn không hề thay đổi: khép kín, độc tài, cưỡng chế, bạo lực. Chính trị cộng sản chỉ là một chiếc bình mới cho một chất rượu văn hóa chính trị cổ đại mà người Trung Hoa cho đến bây giờ vẫn còn đang bị đóng khung.
Con người và văn hóa Trung Hoa mang nặng tính bảo thủ, cố chấp và bản địa. Tính dân tộc của họ rất là cao – nhiều khi đến độ không cần thiết. Thế hệ người Hoa thứ hai, thứ ba sinh ra ở các quốc gia khác, như ở Mỹ hay ở Việt Nam, vẫn coi Trung Hoa là “mẫu quốc” và vẫn cho mình là người Hoa.
Có thể nói rằng vì tinh thần văn hóa này mà người Hoa đã kiến lập một vũ trụ luận sai lầm. Khi Alexander de Rhodes đến truyền giáo ở Trung Hoa vào những thập niên đầu của thế kỷ 17, ông đã có lần viết, “Người Trung Hoa tưởng đất nước của họ là tất cả những gì đẹp nhất cõi đất. Họ bỡ ngỡ khi nhìn vào bản đồ của ta (Pháp), cho thấy nước họ chỉ nhỏ bé so với toàn quả địa cầu. Họ có bản đồ của họ, họ vẽ trái đất vuông, Trung Quốc ở giữa (vì thế mà gọi là Trung Quốc), biển ở dưới với mấy đảo nhỏ, một đảo là châu Âu, đảo khác là châu Phi, đảo khác nữa là Nhật Bản. Do đó, chúng tôi cho họ biết họ chẳng thông thái gì hơn chúng tôi.”
Ðã mấy ngàn năm, trong vòng ảnh hưởng của văn hóa chính trị trưởng thượng với một vũ trụ luận giới hạn và thuần bản địa của người Trung Hoa mà lịch sử Việt Nam quay theo. Dân tộc và lịch sử Việt chỉ như là một chiếc bóng xoay vần theo một cái trục lớn, chắc nịch, đầy thành kiến của ý thức và tâm hồn của người Trung Hoa. Con người và văn hóa Việt Nam chỉ là những mẫu sao chép thiếu khả năng và vụng về từ các nguyên bản Trung Hoa.
Một không gian mới cho Trung Quốc
Tháng 10/2003, Trung Quốc lần đầu trong lịch sử thành công phóng tên lửa đưa phi hành gia lên quỹ đạo trái đất. Đây là bước ngoặt quan trọng như một minh chứng cho thấy năng lực khoa học ngày càng tăng của nước này trong lĩnh vực không gian.
Trên phương diện biểu tượng, thì đó là lúc văn minh Trung Hoa vươn thoát khỏi chính mình – vươn ra khỏi vòng kiềm tỏa của tính dân tộc, tính bản địa, tính lịch sử và nhân sinh quan cổ đại. Vũ trụ luận Trung Quốc nay đang được bùng vỡ. Vỏ trứng gà văn hóa thượng cổ đang mất dần sức mạnh biện minh vốn từng nuôi dưỡng một chính thống tính chính trị đã nghịch thời.
Ta hãy nhìn sự kiện phóng vệ tinh năm 2003 trên ý nghĩa biểu tượng chính trị. Sau khi hỏa tiễn Trường Chinh 2F (Chính thể) đẩy Thần Châu (Ý thức và Tinh thần) lên được vào không trung, thì hỏa tiễn Trường Chinh bị phế bỏ ngay sau đó. Ðây là một biểu tượng ngoạn mục – và bất ngờ – cho năng lực đào thải thể chế chính trị bằng sự vươn lên của tinh thần và ý thức, dù là thể chế đó đã huy động được nhân tài và vật lực cho chuyến tàu không gian này.
Người Hoa từ sự kiện không gian ấy đã bắt đầu nhận thức ra một thế giới phổ quát và một vũ trụ luận tương xứng với thời đại. Cơ năng internet, ý thức pháp luật, phong trào dân chủ và nhân quyền, khoa học và công nghệ phương Tây – với những ưu và khuyết điểm của chúng – đang góp phần đưa con tàu ù lì Trung Hoa vào thế kỷ mới. Ðây mới là một “bước nhảy vọt” văn hóa đích thực – dù đã quá trễ – cho người Trung Hoa.
Mấy giờ đồng hồ sau khi phi thuyền Thần Châu vào quỹ đạo ngoài trái đất, nhìn xuống quả địa cầu tròn trịa và một nước Trung Hoa tương đối nhỏ bé so với tất cả vũ trụ và không gian, phi hành gia Dương Lợi Vỹ đã phải thốt lên, “Hảo thị, hảo thị.” Không biết có phải người không gian – taikonaut – này đã nhận thức ra rằng đã đến lúc văn minh và tâm thức Trung Hoa thực sự đang được giải phóng?
Bài học nhân dụng Trung Quốc cho Việt Nam
Và nếu Trung Hoa đang vươn thoát ra khỏi quỹ đạo văn minh giới hạn của họ, thì liệu Việt Nam chúng ta nay đã đến lúc tung mình ra khỏi quỹ đạo Trung Hoa – và giải phóng ngay cả cái vòng kềm tỏa văn hóa dân tộc và chính trị đầy bóng tối quá khứ của chính mình?
Câu hỏi ở đây là, tại sao cũng một thể loại thể chế chính trị, cũng độc tài toàn trị, cùng văn hóa bảo thủ, mà Trung Quốc có thể đi vào không gian, vươn mình theo quỹ đạo lớn hơn, nhưng Việt Nam lại không thể làm được?
Câu trả lời cho sự thành công khoa học kỹ thuật Trung Quốc trong nửa thế kỷ qua nằm ở chính sách sử dụng nhân tài Hoa kiều, nhất là đội ngũ chuyên gia cao cấp. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát động một chiến lược toàn diện để quy phục nhân tài gốc Hoa trên thế giới về nước phục vụ tổ quốc. Họ không làm nửa vời hay do dự với biện minh an ninh chính trị. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa thực tâm, không có chiến lược lớn thu dụng nhân tài Việt kiều.
Có nhiều lý do, từ văn hóa đến ý chí thể chế. Dẫu sao, Việt Nam vẫn là một nước nhỏ lại mang nặng tâm thức nhược tiểu. Cho đến nay dân ta vẫn chỉ còn nuôi giấc mơ “ra biển lớn” chứ chưa tưởng tượng đến không gian vô tận. Hơn nữa, cuộc chiến 1955-75 cũng đã làm cho Việt Nam kiệt sức, và phong trào di cư ra hải ngoại sau 1975 đã như là một lỗ hổng lớn cho hồ nước nhân tài quốc gia. Cả hai vế mất mát – tinh thần và nhân lực – vẫn chưa được hồi phục vì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn những khuyết điểm lớn trong việc kêu gọi và thu phục nhân tài kiều bào trở về nước, lấy lại nguồn chất xám nguyên khí đã thoát ly.
Ít nhất là từ thế kỷ 15, Trung Quốc đã có những Vương Dương Minh, dám viết ra những điều mình tin tưởng và suy nghĩ, để rồi con cháu của truyền thống Khổng Mạnh đến thế kỷ 20 khi tỉnh thức đã biết cha ông họ đã sai lầm và lạc hậu như thế nào.
Còn Việt Nam ta, tầng lớp lãnh đạo vẫn ngủ yên trong giáo điều văn hóa chính trị từ hơn thế kỷ trước, không biết mình sai lầm ở đâu, và vẫn mang tự ái nhược tiểu để không có can đảm và viễn kiến nhìn vào khuyết điểm từ quá khứ.
Việt Nam chỉ có thể chinh phục biển lớn và bước vào không gian bao la như Trung Quốc chừng nào chế độ chính trị hiện nay biết nhìn lại mình, sửa sai khuyết điểm cơ bản vĩ mô của hệ thống công quyền, vượt qua tinh thần bảo thủ cố chấp, biết tưởng tượng đến một tương lai lớn hơn cho dân tộc.
Từ bài học Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng nhân tài Hoa kiều trên thế giới để chinh phục không gian, Đảng Cộng sản Việt Nam phải biết vượt lên và sửa sai những chính sách nhân dụng giả vờ, nửa vời, nặng bản chất chính trị hiện nay đối với Việt kiều.
Một không gian mới cho Việt Nam phải được rộng mở. Đó là một không gian bao gồm, chung tay, nhằm thu phục những bộ óc khoa học gốc Việt lớn trên thế giới về nước để cùng góp tay chế tạo một tàu không gian Phù Đổng cho vận mệnh quốc gia.
- Tác giả Nguyễn Hữu Liêm là giáo sư chủ nhiệm khoa triết tại San Jose City College, California, Hoa Kỳ