Những thiết bị, phương tiện công nghệ mới được TQ thử nghiệm và triển khai ở Biển Đông thời gian qua

Những thiết bị, phương tiện công nghệ mới được TQ thử nghiệm và triển khai ở Biển Đông thời gian qua

Ngày đăng 14-11-2019

Thực hiện ý đồ giành ưu thế trên biển, Trung Quốc đã tích cực nghiên cứu, thử nghiệm các loại thiết bị, phương tiện công nghệ mới ở Biển Đông. Gần đây nhất, Bắc Kinh đã đưa ra loại tàu lặn không người lái mà nước này quảng bá sẽ đáp ứng những nhu cầu khảo sát di động ở vùng biển sâu về lâu dài tại khu vực Biển Đông.

\"\"/

Thiết bị lặn không người lái “Sea-Whale 2000”

Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc hôm 5/11 đã giới thiệu mẫu phương tiện dưới nước tự động (AUV) mang tên “Sea-Whale 2000” sau khi đã hoàn thành đợt thử nghiệm kéo dài 37 ngày liên tiếp ở Biển Đông trên quãng đường 2.011 km.Mẫu AUV này hình ngư lôi, có chiều dài khoảng 3 m và nặng 200 kg, trang bị công nghệ trí tuệ nhân tạo và hàng loạt cảm biến để phát hiện nhiệt độ, độ mặn, dòng hải lưu, dấu vết hóa học, hoạt động sinh học và quan sát dưới nước. Thiết bị này có thể lặn sâu 2.000 m bên dưới mặt nước và chạy hành trình ở tốc độ 1,2 m/giây. Chuyên gia Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc cho biết “Chúng tôi phát triển Sea-Whale 2000 nhằm đáp ứng những nhu cầu khảo sát di động ở vùng biển sâu về lâu dài tại khu vực Biển Đông”.

Theo nhóm thiết kế, mẫu AUV có thể thực hiện nhiệm vụ kéo dài hàng tuần chỉ với một lần phóng và hoàn thành nhiều công việc. Tuy nhiên, họ từ chối tiết lộ tại sao Trung Quốc chế tạo AUV dưới nước dành riêng cho khu vực Biển Đông. Hiện nay “Sea-Whale 2000” không phải mẫu AUV có tầm hoạt động dài nhất thế giới mà mẫu AUV “Autosub Long Range” của Anh, có tầm hoạt động 6.000 km và thời gian hoạt động liên tục 6 tháng. Trung Quốc đang chạy đua phát triển tàu ngầm không người lái và nằm trong số những nước đầu tiên đưa công nghệ này vào sử dụng. “Sea-Whale 2000” có thể chạy hành trình như tàu ngầm thông thường, sử dụng bộ xử lý trung tâm từ STMicroelectronics, một công ty bán dẫn tại châu Âu và liên lạc qua mạng lưới vệ tinh toàn cầu do công ty Mỹ Iridium Communications điều hành. Dữ liệu do AUV thu thập cần được so sánh cẩn thận với dữ liệu từ các phương pháp khác để quyết định chất lượng và độ chính xác.

Máy bay chiến đấu không người lái CH-7

Tháng 01/2019, Tập đoàn Khoa học và Công nghệ Hàng không Trung Quốc (CASIC) đã giới thiệu loại máy bay chiến đấu không người lái CH-7 “Thiên Ưng”, mẫu phi cơ được coi là bản sao của X-47B và RQ-170 Sentinel do Mỹ sản xuất.CH-7 dài 10 m và có sải cánh rộng 22 m, đạt độ cao hành trình 10-13 km. Nó mang được nhiều loại vũ khí như tên lửa diệt radar và bom dẫn đường, cũng như được lắp hệ thống trinh sát điện tử để xác định mục tiêu có giá trị cao nhờ tín hiệu vô tuyến.Máy bay chiến đấu không người lái CH-7 có thể làm nhiệm vụ trinh sát, chỉ thị mục tiêu và sử dụng vũ khí dẫn đường chính xác. Thiên Ưng cũng ứng dụng nhiều đặc điểm của dòng RQ-170 Sentinel, trong đó có phần cửa hút gió động cơ. Một số diễn đàn quân sự Trung Quốc tiết lộ Bắc Kinh từng cử 17 chuyên gia hàng không tới thủ đô Tehran của Iran hồi năm 2011, chỉ 4 ngày sau khi một chiếc RQ-170 Mỹ hạ cánh khẩn cấp xuống lãnh thổ nước này. Họ không chỉ khám nghiệm máy bay mà còn mang một số bộ phận quan trọng về Trung Quốc.

Tàu chiến không người lái JARI USV

Tháng 2/2019, Công ty đóng tàu quốc tế Trung Quốc (CSOI) đang phát triển một loại tàu mặt nước nhỏ không người lái có tên JARI USV. Tàu này nặng 20 tấn, dài 15 m, nhỏ hơn rất nhiều so với các tàu khu trục Type-055 của hải quân Trung Quốc nhưng có cùng nhiệm vụ: chống ngầm, chống tàu mặt nước và cả phòng không. Tàu JARI được trang bị các cảm biến điện-quang, radar mảng pha, thiết bị thủy âm, 8 ống phóng thẳng đứng, một ống phóng ngư lôi và một súng gắn phía mũi tàu, một dàn phóng rocket, theo mô hình trưng bày tại triển lãm. Không chỉ Trung Quốc, hiện nay hải quân Mỹ cũng đang thảo luận về mong muốn phát triển các công nghệ không người lái để tích hợp vào tàu chiến đấu mặt nước và tàu ngầm. Họ đã nghiên cứu phát triển một số tàu không người lái trang bị nhiều cảm biến và vũ khí để thâm nhập các khu vực chống tiếp cận của đối phương, ví dụ như trên biển Đông. Tàu JARI có vẻ là lời đáp trả của Trung Quốc đối với hình thức tác chiến kiểu mới từ phía Mỹ.

Tốc độ của tàu đạt gần 80km/h, tầm hoạt động hơn 900km. Năm ngoái, khi Trung Quốc công bố thiết kế này tại một triển lãm ở châu Phi, một đại diện của họ nói với Navy Recognition rằng tàu robot này được hải quân Trung Quốc sử dụng và cũng dành để xuất khẩu, và rằng tàu nguyên mẫu đang được vận hành thử nghiệm ở Trung Quốc. Tàu có thể được điều khiển từ một trạm đặt trên đất liền, hoặc từ tàu mẹ, theo tin của Navy Recognition. Tuy nhiên, không có thông tin về hình thức liên lạc từ trạm điều khiển hay từ tàu mẹ.

Hệ thống định vị biển sâu trên Biển Đông

Thời báo Hoàn Cầu hôm 24/3 cho hay, Trung Quốc đang lên kế hoạch xây dựng “Hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu dưới nước”. Dự án nằm trong một chương trình rộng hơn nhằm cung cấp các dịch vụ định vị, hoa tiêu và liên lạc cho người sử dụng trên toàn cầu. Hoạt động thí điểm được cho là sẽ được thực hiện trên Biển Đông. Ông Huang Chudan, Chủ nhiệm Phòng Thí nghiệm Âm thanh Thượng Hải thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, cho biết hệ thống định vị dưới biển sâu này là dự án UGPS, sẽ cung cấp hỗ trợ công nghệ trọng yếu phục vụ hoạt động phân định ranh giới dưới vùng biển nước sâu, đặc biệt là phục vụ các tàu lặn sâu của nước này. Theo ông Huang, tín hiệu định vị bằng sóng radio khó hoạt động ở vùng biển sâu, nên các tàu lặn có người lái và không có người lái không thể sử dụng các hệ thống vệ tinh dẫn đường sẵn có. UGPS sẽ sử dụng sóng âm để định vị dưới nước thay vì sử dụng sóng vô tuyến. Tuy nhiên, ông Huang không tiết lộ độ sâu hoạt động hiệu quả cũng như mức độ chính xác của dịch vụ này. Theo kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), Trung Quốc sẽ xây dựng một khu vực ứng dụng UGPS, bao phủ diện tích khoảng 250.000 km2.

Ý đồ của TQ khi triển khai, thử nghiệm các loại thiết bị, công nghệ như trên ở Biển Đông

Giới quan sát cho rằng ý đồ của TQ khi triển khai, thử nghiệm các loại thiết bị, công nghệ như trên ở Biển Đông thời gian qua là: Thứ nhất, nhằm tăng cường hiện diện quân sự và khả năng tác chiến ở Biển Đông. Các thiết bị này cùng với các cuộc trận trái phép ở gần khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, sẽ giúp Trung Quốc giành thế lấn lướt về công nghệ và quân sự ở khu vực. Thứ hai, nhằm cảnh báo tới Mỹ và các nước thời gian gần đây tăng cường triển khai tàu thuyền, máy bay hoạt động tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Các nước như Mỹ, Anh, Pháp, Australia đã tăng cường can dự vào vấn đề Biển Đông. Gần đây nhất, Tổng thống Philippines đã thách đố các nước can dự nhiều hơn vào Biển Đông, trong đó Pháp là nước đã lên tiếng khẳng định sẽ tiếp tục duy trì hiện diện quân sự và triển khai tàu thuyền thường xuyên ở Biển Đông. Mỹ và các nước thời gian qua cũng tiến hành hàng loạt các cuộc tập trận song phương, đa phương ở Biển Đông trong đó mục đích được giới quan sát cho rằng là đối phó với Trung Quốc. Thứ ba, với vỏ bọc là đáp ứng những nhu cầu khảo sát di động ở vùng biển sâu về lâu dài tại khu vực Biển Đông, Trung Quốc muốn đánh lạc hướng dư luận. Phục vụ y đồ tuyên truyền về hoạt động nghiên cứu khoa học nhưng thực chất là nhằm củng cố sự chiếm đóng của nước này ở các thực thể trên Biển Đông. Ngoài ra, với những thiết bị mới này, Bắc Kinh sẽ tăng cường xâm nhập vào vùng biển của các nước khác từ xa. Thứ tư, việc triển khai, thử nghiệm các loại thiết bị, công nghệ như trên ở Biển Đông mang tính lưỡng dụng, vừa là dân sự nhưng có thể cũng là quân sự, nhằm cảnh báo các nước trong khu vực về sức mạnh và sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở khu vực, tăng cường sự hậu thuẫn cho lực lượng tàu cá dân quân biển của nước này ở Biển Đông.

Bài Liên Quan

Leave a Comment